Giải pháp giảm phát thải khí nhà kính trong sản xuất nông nghiệp

TMO – Nông nghiệp không chỉ là ngành chịu tác động của biến đổi khí hậu mà còn gây ra phát thải nhà kính rất lớn. Thực tế này đòi hỏi ngành nông nghiệp nước ta cần triển khai các giải pháp nhằm nỗ lực giảm phát thải, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.

Nông nghiệp là một trong những lĩnh vực chịu ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Trong đó, đối với ngành trồng trọt, canh tác lúa, tác động của biến đổi khí hậu thể hiện rõ khi diện tích đất canh tác suy giảm, tình trạng hạn hán và sâu bệnh, vấn nạn xâm nhập mặn,…gây áp lực lớn đến năng suất cây trồng, sinh kế của người nông dân và cơ hội thương mại nông sản.

Theo đánh giá của các chuyên gia, nông nghiệp chỉ xếp sau ngành năng lượng và giao thông vận tải về lượng phát thải khí nhà kính ra môi trường, góp phần gia tăng tốc độ biến đổi khí hậu. Nền nông nghiệp nước ta đóng góp khoảng 30% tổng lượng phát thải khí nhà kính (KNK) toàn quốc. Phát thải KNK trong nông nghiệp tập trung chủ yếu trong 3 lĩnh vực chính: trồng lúa nước phát thải 49,7 triệu tấn CO2 quy đổi (CO2e), chiếm 50%; chăn nuôi phát thải 18,5 triệu tấn CO2e, chiếm 19%; quản lý đất và sử dụng phân bón phát thải 13,2 triệu tấn CO2e, chiếm 13%. 

Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), lúa gạo là mặt hàng nông nghiệp quan trọng của Việt Nam nhưng lại chiếm tới 48% lượng phát thải khí nhà kính của ngành nông nghiệp và hơn 75% lượng khí thải mê tan, tương đương với lượng phát thải khoảng 49,6 triệu tấn khí nhà kính mỗi năm. Có nhiều nguyên nhân làm tăng phát thải khí nhà kính trong sản xuất lúa, bao gồm sử dụng nước kém hiệu quả, mật độ gieo sạ cao, tỷ lệ bón phân chưa hiệu quả, thu hoạch rơm rạ chưa đúng cách… Loại khí này sinh ra chủ yếu do các chất hữu cơ bị phân hủy trong điều kiện yếm khí khi ruộng lúa bị ngập nước.

Để giảm phát thải khí nhà kính trong trồng lúa nước cần thực hiện đồng bộ các biện pháp như: áp dụng công nghệ “nông lộ phơi”, tức là chế độ tưới nước chủ động khô và ngập nước thay vì để các ruộng lúa ngập nước trong suốt cả mùa vụ, từ đó giúp giảm phát thải khí metan. Tuy nhiên, với giải pháp này cần xây dựng hệ thống thủy lợi chủ động để áp dụng công nghệ phù hợp và cũng đòi hỏi chi phí đầu tư tương đối lớn.

Ban Quản lý các dự án nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, phát thải khí trong trồng lúa nước chủ yếu là phát thải khí CH4 (metan). Loại khí này sinh ra chủ yếu do các chất hữu cơ bị phân hủy trong điều kiện yếm khí khi ruộng lúa bị ngập nước. Để giảm phát thải khí nhà kính trong trồng lúa nước cần thực hiện đồng bộ các biện pháp như: áp dụng công nghệ “nông lộ phơi”, tức là chế độ tưới nước chủ động khô và ngập nước thay vì để các ruộng lúa ngập nước trong suốt cả mùa vụ, từ đó giúp giảm phát thải khí metan. Tuy nhiên, với giải pháp này cần xây dựng hệ thống thủy lợi chủ động để áp dụng công nghệ phù hợp và cũng đòi hỏi chí phí đầu tư tương đối lớn.

Việc triển khai mô hình canh tác lúa thông minh là một trong những giải pháp góp phần giảm phát thải. Ảnh: NV. 

Việc chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả sang các cây trồng cạn khác góp phần giảm phát thải khí nhà kính. Do lượng phát thải trong cây trồng cạn thấp nên chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả sang canh tác các loại cây trồng cạn sẽ giúp giảm phát thải khí nhà kính. Ngoài ra, các địa phương cần thực hiện chuyển đổi đất sản xuất 2-3 vụ lúa sang sản xuất 1 vụ lúa, 1 vụ màu. Để đạt hiệu quả bền vững, đòi hỏi mỗi địa phương phải có quy hoạch cụ thể liên quan đến sản xuất, thị trường sản phẩm cũng như chi phí đầu tư cảo tạo hệ thống thủy lợi, cơ sở chế biến.

Tại Việt Nam, các chương trình sản xuất tiên tiến đã từng bước được áp dụng trong thời gian qua nhằm xanh hóa việc trồng lúa. Cụ thể như hệ thống canh tác lúa cải tiến (SRI), là phương pháp canh tác lúa sinh thái, mang lại hiệu quả và năng suất cao, giảm phát thải khí nhà kính dựa trên những tác động kỹ thuật nhằm giảm chi phí đầu vào như giống, phân bón, thuốc trừ sâu, tiết kiệm nước tưới. Những kỹ thuật tác động bao gồm: cấy mạ non, cấy một dảnh, cấy thưa, quản lý nước, làm cỏ sục bùn và bón phân hữu cơ.

Hiệu quả ứng dụng SRI ở Việt Nam cho thấy, lượng giống giảm 70-90%; giảm sử dụng thuốc hóa học 70-100%; tiết kiệm nước tưới; giảm sâu bệnh hại; tăng khả năng chống đổ của cây lúa; tăng năng suất lúa; giá thành sản xuất giảm trung bình 342 đồng đến 520 đồng/kg lúa. Trong triển khai Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long, vấn đề giảm phát thải khí nhà kính trong sản xuất lúa đang được các địa phương quan tâm và nỗ lực thực hiện.

Những năm qua, ngành chăn nuôi phát triển khá mạnh về cả số lượng lẫn quy mô. Tuy nhiên việc chăn nuôi nhỏ lẻ trong nông hộ, thiếu quy hoạch đã gây ra ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng. Mỗi năm chăn nuôi phát thải 18,5 triệu tấn CO2 nhưng việc xử lý chất thải chăn nuôi còn chưa hiệu quả. Phát thải khí nhà kính từ chăn nuôi bao gồm 2 nguồn chính: Khí mê tan từ dạ cỏ của động vật nhai lại và khí CH4, N2O từ phân động vật.

Với quy mô đàn gia súc 28 triệu con lợn, xấp xỉ 9 triệu con trâu, bò và hơn 520 triệu con gia cầm, hiện mỗi năm ngành chăn nuôi thải ra môi trường khoảng 73 triệu tấn thải rắn; 25-30 triệu khối chất thải lỏng… Tuy nhiên, chỉ khoảng 50% chất thải rắn và 20% chất thải lỏng trên được xử lý trước khi thải ra môi trường. Để giảm phát thải khí nhà kính, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, ngành chăn nuôi đang tích cực triển khai nhiều giải pháp. Đối với chất thải từ chăn nuôi trâu, bò hiện nay, việc sử dụng các công nghệ mới, đệm lót sinh học được đánh giá là giải pháp hữu hiệu nhằm giảm khí thải mê-tan, góp phần giải quyết ô nhiễm môi trường.

Việc ứng dụng mô hình đệm lót sinh học trong chăn nuôi được các địa phương đẩy mạnh triển khai 

Chăn nuôi trên nền đệm lót sinh học là một hình thức nuôi nhốt gia súc, gia cầm trên một nền đệm lót được làm bằng nguyên liệu có độ trơ cao (như trấu, mùn cưa, rơm, rạ….) trộn với men vi sinh để phân hủy phân, nước tiểu, giảm khí độc và mùi hôi trong chuồng nuôi, giảm ô nhiễm môi trường. Trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét, nguy cơ ô nhiễm môi trường do chăn nuôi vẫn hiện hữu, việc phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn trong chăn nuôi sẽ là hướng đi chủ đạo để ngành chăn nuôi nước ta phát triển bền vững.

Thời gian tới, lĩnh vực nông nghiệp sẽ ứng dụng các giải pháp quản lý cây trồng tổng hợp; áp dụng các công nghệ trong trồng trọt như tưới khô ướt xen kẽ và SRI ở vùng có hạ tầng đầy đủ; hiện đại hoá tưới nước và bón phân cho cây dài ngày; rút nước giữa vụ trong canh tác lúa; chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả thành đất cây trồng cạn hoặc đất tôm – lúa; bón phân compost và nông nghiệp hữu cơ; thay phân đạm bằng các loại phân chậm tan, phân hóa chậm; cải thiện khẩu phần ăn gia súc nhai lại; tuần hoàn chất thải nông nghiệp làm phân hữu cơ; phát triển sử dụng khí sinh học. Giảm phát thải khí mê-tan trong các tiểu lĩnh vực, đặc biệt là canh tác lúa nước và quản lý chất thải vật nuôi, phế phụ phẩm nông nghiệp là các biện pháp nhằm thực hiện tuyên bố của Việt Nam tại COP26, giảm phát thải khí mê-tan 30% vào năm 2030 so với mức phát thải của năm 2020.

Nguồn: https://thiennhienmoitruong.vn/

Tin liên quan:

Bài viết cùng chủ đề:

.